Xem trang danhnhanvietnamdn.blogspot.com tốt nhất các bạn nên xem trên trình duyệt Firefox, Google Chrome. Thanks!

Đinh Tiên Hoàng Hoàng đế Việt Nam


Đinh Tiên Hoàng (chữ Hán: 丁先皇; 924 - 979) là vị vua sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Ông là người có công đánh dẹp loạn 12 sứ quân, thống nhất giang sơn và trở thành hoàng đế đầu tiên của Việt Nam sau 1000 năm Bắc thuộc. Đại Cồ Việt là nhà nước mở đầu cho thời đại độc lập, tự chủ, xây dựng chế độ quân chủ tập quyền ở Việt Nam.[1] Đinh Bộ Lĩnh mở nước, lập đô, lấy niên hiệu với tư cách người đứng đầu một vương triều bề thế:
Thời kỳ phục quốc của Việt Nam, từ họ Khúc chỉ xưng làm Tiết độ sứ, tới Ngô Quyền xưng vương và tới vua Đinh xưng làm hoàng đế. Sau hai vua nhà Tiền Lý xưng đế giữa thời Bắc thuộc rồi bị thất bại trước hoạ ngoại xâm, 400 năm sau người cầm quyền Việt Nam mới thực sự vươn tới đỉnh cao ngôi vị và danh hiệu, khẳng định vị thế vững chắc của quốc gia độc lập, thống nhất qua các triều đại Đinh – Lê – Lý - Trần và buộc các điển lễ, sách phong của cường quyền phương Bắc phải công nhận là một nước độc lập. Từ Đinh Bộ Lĩnh trở về sau, các Vua không xưng Vương hay Tiết độ sứ nữa mà đều xưng Hoàng đế như một dòng chính thống. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế đặt nền móng sáng lập nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở Việt Nam, vì thế mà ông còn được gọi là người mở nền chính thống cho các triều đại phong kiến trong lịch sử.
     Hiện nay người Việt thường gọi ông là "Đinh Tiên Hoàng" nhưng "Tiên Hoàng" không phải bản danh của ông vua họ Đinh này, cũng không phải là thuỵ hiệu hay miếu hiệu của ông. Cái tên này là do người đời sau ghép từ họ Đinh của ông với tên gọi "tiên hoàng". Tên gọi "Đinh Tiên Hoàng đế" cũng tương tự như vậy. "Việt sử lược" gọi ông là "tiên vương" (先王), "Đại Việt sử ký toàn thư" gọi là "tiên hoàng" (先皇), "tiên hoàng đế" (先皇帝). "Tiên vương", "tiên hoàng", "tiên hoàng đế" ý đều là vị vua đời trước, vị vua đã chết. Sau khi ông chết được quần thần chỉ tôn ông làm "Tiên hoàng đế" mà không đặt thuỵ hiệu, miếu hiệu cho ông. Một nhân vật lịch sử Việt Nam khác cũng có cái tên chắp ghép theo kiểu này là Trần Hưng Đạo (ghép từ họ Trần của ông với Hưng Đạo vương, là tước vị của ông).
   "Việt sử lược" (越史略) và "Đại Việt sử ký toàn thư" (大越史記全書) đều nói bản danh của Đinh Tiên Hoàng là Đinh Bộ Lĩnh (丁部領).Trần Trọng Kim trong "Việt Nam sử lược" (越南史略) cho biết có sách nói Đinh Tiên Hoàng bản danh là Đinh Hoàn (丁桓), "bộ lĩnh" là tước quanTrần Lãm (陳覽) phong cho Đinh Hoàn. Trần Trọng Kim thấy "Khâm định Việt sử thông giám cương mục" (欽定越史通鑑綱目) và các sách khác đều nói Đinh Tiên Hoàng bản danh là Đinh Bộ Lĩnh nên ông vẫn dùng tên gọi Đinh Bộ Lĩnh.Sinh thời ông có tôn hiệu là Vạn Thắng vương (萬勝王), Đại Thắng Minh hoàng đế (大勝明皇帝).
Thuở hàn vi[sửa]
Tượng đài cờ lau Đinh Bộ Lĩnh ở Thành phố Hồ Chí Minh

      Đinh Bộ Lĩnh sinh ngày Rằm tháng Hai, năm Giáp Thân (tức 22 tháng 3 năm 924) ở thôn Kim Lư, làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng (nay thuộc xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình)[8][9]. Cha của ông là Đinh Công Trứ, nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức thứ sử Hoan Châu. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, nương nhờ người chú ruột là Đinh Thúc Dự. Từ bé Đinh Bộ Lĩnh đã tỏ ra là người có khả năng chỉ huy, ông cùng các bạn chăn trâu lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Và trong đám bạn đó, có Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lưu Cơ và Trịnh Tú, những người sau này cùng Đinh Bộ Lĩnh tạo nên sự nghiệp.
    Đại Việt Sử Ký Toàn Thư chép:“Vua mồ côi cha từ bé, mẹ họ Đàm đưa gia thuộc vào ở cạnh đền sơn thần trong động. Vào tuổi nhi đồng, vua thường cùng bọn trẻ con chăn trâu ngoài đồng. Bọn trẻ tự biết kiến thức không bằng vua, cùng nhau suy tôn làm trưởng. Phàm khi chơi đùa, thường bắt bọn chúng chéo tay làm kiệu khiêng và cầm hoa lau đi hai bên để rước như nghi trượng thiên tử. Ngày rỗi, thường kéo nhau đi đánh trẻ con thôn khác, đến đâu bọn trẻ đều sợ phục, hàng ngày rủ nhau đến phục dịch kiếm củi thổi cơm. Bà mẹ thấy vậy mừng lắm, mổ lợn nhà cho chúng ăn. Phụ lão các sách bảo nhau: "Đứa bé này khí lượng như thế ắt làm nên sự nghiệp, bọn ta nếu không theo về, ngày sau hối thì đã muộn". Bèn dẫn con em đến theo, rồi lập làm trưởng ởsách Đào Áo. Người chú của vua giữ sách Bông chống đánh với vua. Bấy giờ, vua còn ít tuổi, thế quân chưa mạnh, phải thua chạy. Khi qua cầu ở Đàm Gia Nương Loan, cầu gãy, vua rơi xuống bùn, người chú toan đâm, bỗng thấy hai con rồng vàng hộ vệ vua, nên sợ mà lui. Vua thu nhặt quân còn sót, quay lại đánh, người chú phải hàng. Từ đấy ai cũng sợ phục, phàm đi đánh đến đâu đều dễ như chẻ tre, gọi là Vạn Thắng Vương.”
     Có một giai thoại về Đinh Bộ Lĩnh thuở bé.Một lần Đinh Bộ Lĩnh quyết định cho mổ con trâu của người chú để "khao quân". Ông mang đuôi trâu cắm vào một khe núi. Đến tối Đinh Dự hỏi, Đinh Bộ Lĩnh nói dối trâu vào hang và cửa hang đã bị lấp lại. Đinh Dự tới nơi, rút cái đuôi trâu ra, giận người cháu nói dối nên đuổi đánh. Đinh Bộ Lĩnh bỏ đi mất.
Thống nhất giang sơn
    Năm 944 Ngô Quyền mất. Anh/em vợ của Ngô Quyền là Dương Tam Kha tự lập làm vua là Dương Bình Vương. Các nơi không chịu thuần phục, nhiều thủ lĩnh nổi lên cát cứ một vùng thường đem quân đánh chiếm lẫn nhau. Năm 950, Ngô Xương Văn, con thứ hai của Ngô Quyền, lật đổ Dương Tam Kha giành lại ngôi vua. Sau đó Ngô Xương Văn đón anh trai là Ngô Xương Ngập về cùng làm vua. Đến năm 954, Ngô Xương Ngập bị bệnh mất.
     Năm 965, Ngô Xương Văn đi đánh thôn Đường và Nguyễn ở Thái Bình bị phục binh bắn chết. Con của Ngô Xương Ngập là Ngô Xương Xí nối nghiệp, quá suy yếu phải về đóng giữ đất Bình Kiều. Từ năm 966, hình thành 12 sứ quân, sử gọi là loạn 12 sứ quân:
Sơ đồ chiếm đóng 12 sứ quân
    Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều (Triệu Sơn - Thanh Hóa) [12].
Đỗ Cảnh Thạc tự xưng là Đỗ Cảnh Công, giữ Đỗ Động Giang (Thanh Oai, Hà Nội)
Trần Lãm tự xưng là Trần Minh Công, giữ Bố Hải Khẩu - Kỳ Bố (Thái Bình)
Kiều Công Hãn tự xưng Kiều Tam Chế, giữ Phong Châu - Bạch Hạc (Việt Trì và Lâm Thao, Phú Thọ)
Nguyễn Khoan tự xưng Nguyễn Thái Bình, giữ Tam Đái (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc)
Ngô Nhật Khánh tự xưng là Ngô Lãm Công, giữ Đường Lâm (Sơn Tây, Hà Nội)
Lý Khuê tự xưng là Lý Lãng, giữ Siêu Loại (Thuận Thành, Bắc Ninh)
Nguyễn Thủ Tiệp tự xưng là Nguyễn Lệnh Công, giữ Tiên Du (Bắc Ninh)
Lã Đường tự xưng là Lã Tá Công, giữ Tế Giang (Văn Giang, Hưng Yên)
Nguyễn Siêu tự xưng là Nguyễn Hữu Công, giữ Tây Phù Liệt (Thanh Trì, Hà Nội)
Kiều Thuận tự xưng là Kiều Lệnh Công, giữ Hồi Hồ - Cẩm Khê (Phú Thọ)
Phạm Bạch Hổ tự xưng là Phạm Phòng Át, giữ Đằng Châu (Hưng Yên)
    Đinh Bộ Lĩnh cũng tập hợp dân chúng ở vùng Hoa Lư. Sau đó, ông cùng con trai là Đinh Liễn sang đầu quân trong đạo binh của sứ quân Trần Minh Công tức Trần Lãm ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình). Đinh Bộ Lĩnh cưới Trần Nương và trở thành con rể của Trần Minh Công. Sau khi Trần Minh Công mất, Đinh Bộ Lĩnh thay quyền, đưa quân về Hoa Lư, chiêu mộ binh lính, chống nhà Ngô và các sứ quân khác. Chỉ trong vài năm, Đinh Bộ Lĩnh lần lượt đánh thắng 11 sứ quân khác, được xưng tụng là Vạn Thắng Vương. Chiến tranh kết thúc năm 968. Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế. Thắng lợi của Đinh Bộ Lĩnh là thắng lợi của xu hướng thống nhất quốc gia, của tinh thần dân tộc và ý chí độc lập trong nhân dân.
Mở nước, lập đô, đổi xưng Hoàng đế
Đồng tiền Thái Bình hưng bảo, tiền đầu tiên ở Việt Nam

Năm Mậu Thìn 968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Đại Thắng Minh Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng cho xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ. Vua phong cho Nguyễn Bặc là Định Quốc công, Đinh Điền là Ngoại giáp, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trương Ma Ni làm Tăng lục, Đạo sĩ Đặng Huyền Quang được làm Sùng chân uy nghi và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Vua lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông.
    Từ năm Canh Ngọ 970, bắt đầu đặt hiệu năm là Thái Bình. Đinh Tiên Hoàng truyền cho đúc tiền đồng, là tiền tệ xưa nhất ở Việt Nam, gọi là tiền đồng Thái Bình.[14]Nhà Đinh cũng là triều đại đầu tiên đặt nền móng cho nền tài chính - tiền tệ của Nhà nước phong kiến Việt Nam.
    Đồng tiền Thái Bình được đúc bằng đồng, hình tròn, lỗ vuông, có thể xâu thành chuỗi. Mặt phải có đúc bốn chữ "Thái Bình Hưng Bảo", mặt sau có chữ "Đinh". Hầu hết gần 70 triều vua sau đó, triều nào cũng cho đúc tiền của mình bằng đồng.
   Về chính trị trong nước có phần quá thiên về sử dụng hình phạt nghiêm khắc. Vua muốn dùng uy chế ngự thiên hạ, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: "Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn". Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm.
     Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ, năm Nhâm Thân 972[16], Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn sang cống nhà Tống Trung Quốc. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làmGiao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó Đại Cồ Việt giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Từ năm Thái Bình thứ 7 [976], thuyền buôn của các nước ngoài đến dâng sản vật của nước họ. Kết mối giao thương.
     Về quân sự, Đinh Tiên Hoàng phân ra đạo, quân, lữ, tốt, ngũ. Mỗi một đạo có 10 quân, 1 quân 10 lữ, 1 lữ 10 tốt, 1 tốt 10 ngũ, 1 ngũ 10 người. Như vậy quân đội nhà Đinh khi đó có 10 đạo, là khoảng 1 triệu người trong khi dân số đất nước khoảng 3 triệu. Vua thực hiện “ngụ binh ư nông”, đó là hình thức vũ trang toàn dân, dựa vào nghề nông mà phát triển quân đội.[17][18]
Cái chết[sửa]
Lăng mộ vua Đinh ở cố đô Hoa Lư

    Đinh Tiên Hoàng có con trưởng là Đinh Liễn, nhưng ông lại lập con út Hạng Lang làm Thái tử. Vì vậy đầu năm Kỷ Mão 979, Đinh Liễn tức giận sai người giết Hạng Lang. Theo chính sử, tháng 11 (âm lịch) năm đó, một viên quan là Đỗ Thích, mơ thấy sao rơi vào miệng, tưởng là điềm báo được làm vua nên đã giết chết cả Đinh Tiên Hoàng và Đinh Liễn. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi. Ông được táng ở sơn lăng Trường Yên.
    Gần đây, một số nhà nghiên cứu lịch sử đưa ra giả thuyết: Đỗ Thích không phải là thủ phạm giết vua. Theo nhà giáo Hoàng Đạo Thuý và một số nhà nghiên cứu hiện nay[19], Đỗ Thích không thể làm chuyện này. Thích chỉ là một viên hoạn quan, chức nhỏ, sức mọn, không hề có uy tín hay vây cánh. So với Thích, trong triều có các bạn của vua Đinh như Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Lưu Cơ... đều nắm trọng quyền, đủ cả văn lẫn võ. Vì vậy ông không thể mơ tưởng việc sẽ khuất phục được các đại thần nhà Đinh để ngồi yên trên ngai vàng.
Nghi án cung đình
    Cũng theo nhóm tác giả này, việc Lê Hoàn làm Phó vương khi Đinh Toàn lên ngôi, cấm cố họ Đinh cùng với việc các trung thần Nguyễn Bặc, Đinh Điền,Phạm Hạp khởi binh chống Lê Hoàn có thể là những biểu hiện cho thấy mưu đồ thoán đoạt của Lê Hoàn. Ngày nay, số đền thờ các trung thần này rất nhiều so với vài đền thờ Lê Hoàn và thái hậu họ Dương. Các nhà nghiên cứu có đặt giả thiết là hành động của Lê Hoàn có sự trợ giúp của Dương Vân Nga. Trong bối cảnh cung đình của nhà Đinh lúc ấy có 3 hoàng tử, trưởng là Liễn, thứ là Toàn, út là Hạng Lang. Liễn là con trưởng, có nhiều công lao; Hạng Lang lại được vua yêu nên đã lập làm thái tử dù mới lên 4 tuổi, khó có thể bộc lộ những phẩm chất cao siêu hơn Đinh Liễn. Tiên Hoàng lại có những 5 hoàng hậu; có thể đã xảy ra cuộc đua ganh giữa 5 hoàng hậu về tương lai của ngôi thái tử. Trong cuộc đua ganh này, Dương hậu đã chọn Lê Hoàn làm chỗ dựa. Sau sự kiện Đinh Liễn giết Hạng Lang, Đinh Tiên Hoàng không xử phạt Đinh Liễn mà vẫn dự định để Liễn nối nghiệp. Có thể điều này làm phật ý Dương hậu khi bà cho rằng trước đã đặt Hạng Lang trên Liễn thì nay Liễn cũng phải ở dưới Toàn; và Dương Hậu đã cùng Lê Hoàn hành động.
     Theo lý giải của một số nhà nghiên cứu, một trong những nguyên nhân khiến nhà Tống phát binh xâm lược Đại Cồ Việt chính là do Đinh Liễn, người đã đi lại với nhà Tống và được chính vua Tống phong chức, bị hại. Việc phong Liễn cho thấy nhà Tống thừa nhận ngôi vị của Liễn. Với danh nghĩa trừng trị kẻ phản nghịch, nhà Tống phát binh. Việc Lê Hoàn thành công trong cuộc kháng chiến chống Tống có thể đã khiến nhân dân tha thứ cho ông. Các nhà nghiên cứu cũng đặt giả thiết Đỗ Thích chỉ là người vô tình có mặt ở hiện trường sau khi cha con vua Đinh bị hại (vì là quan nội thị) và lúc bấy giờ ông không thể thanh minh mình vô tội lúc nhiều người ập tới. Ông vội vã chạy trốn và bị bắt chém sau 3 ngày, trở thành nạn nhân trong mưu đồ của Lê Hoàn và Dương hậu.
    Tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử"[20] nêu ra giả thiết:Trong cuộc chiến cung đình giữa các hoàng hậu, bà mẹ Hạng Lang đã chọn Nguyễn Bặc làm vây cánh. Khi Hạng Lang bị giết mà thủ phạm Đinh Liễn không bị trừng trị, bà nảy ý định trả hận và đã cùng Nguyễn Bặc dùng Đỗ Thích ra tay. Sau đó Nguyễn Bặc theo lệnh của bà bắt giết Thích để “diệt khẩu”.Tuy nhiên, giả thiết này còn có những điểm không thoả đáng. Nguyễn Bặc là bạn “chí cốt” của Tiên Hoàng từ nhỏ. Quan hệ giữa ông và Tiên Hoàng rất gần, quan điểm cho rằng ông nảy ý định phản Tiên Hoàng là hơi gượng ép. Dù ông có bụng "thờ" Hạng Lang chứ không “thờ” Liễn (chọn chủ tương lai) thì cũng chỉ giết Liễn chứ không thể giết luôn cả Tiên Hoàng. Thứ nữa, nếu Nguyễn Bặc bày đặt sai Đỗ Thích giết cha con vua Đinh thì sau khi Thích hành sự xong, ông phải lập tức "đón lõng" bắt Thích ngay và chém tức khắc, không thể để trốn tránh tới 3 ngày, vì nhỡ trốn tránh lọt vào tay người khác lại khai ra ông, như vậy ông sẽ bị lộ là chủ mưu.
    Cũng tác giả Lê Văn Siêu trong sách "Việt Nam văn minh sử" nêu ra một giả thiết khác:[20]Đỗ Thích là "gian tế" của nhà Tống, giết cha con vua Đinh để làm rối triều đình và cho nhà Tống thừa cơ mang quân sang đánh chiếm. Vì Trung Hoa là nước lớn nên phía Đại Cồ Việt dù có biết, cũng không dám "làm to chuyện" gian tế đó, chỉ dồn sức đánh trả sau này.Giả thiết này kém thuyết phục nhất. Cha con vua Đinh bị giết tháng 10 năm 979. Lê Hoàn lên thay ngôi nhà Đinh tháng 7 năm 980, hơn nửa năm sau (sau khi đã dẹp các trung thần nhà Đinh). Nhà Tống mãi tháng 3 năm 981 mới mang quân sang, tức là gần 1 năm rưỡi sau khi cha con vua Đinh bị hại. Nếu nhà Tống rắp tâm hại cha con vua Đinh để đánh chiếm thì phải sắp sẵn quân, chờ khi được tin "Đã giết được Giao Chỉ quận vương" là vượt biên giới ngay để người Nam bị "sét đánh không kịp bưng tai" thì mới chiếm được. Sự thực là tin vua Đinh bị hại đến khá muộn. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, cha con vua Đinh bị hại từ tháng 10 năm 979, tới tận tháng 6 năm 980, Tri Ung châu nhà Tống là Hầu Nhân Bảo mới dâng biểu lên Tống Thái Tông tâu nên đánh Giao Chỉ và từ tháng 7 năm đó vua Tống mới bắt đầu động binh. Tới khi Lê Hoàn đã lên ngôi (tháng 7 năm 980), nghe tin nhà Tống động binh và đưa thư dụ hàng, tới tháng 10 năm đó vẫn thác xưng danh của Đinh Toàn xin nối ngôi vua cha Tiên Hoàng để gửi thư sang vua Tống nhằm hoãn binh. Nhà Tống khi đó vẫn dè dặt dùng “lễ” để chiêu dụ trước. Nếu nhà Tống chủ mưu và chưa muốn dùng binh, ít ra cũng động binh sớm để áp sát biên giới, uy hiếp rồi sai sứ sang doạ để Giao Chỉ quy phục. Sự thực là nhà Tống động binh muộn và ra quân cũng muộn, đủ thời gian choLê Hoàn dẹp xong nội loạn, giữ vững nhân tâm và chuẩn bị đón đánh thắng lợi.
Lời bàn.
   Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư bản kỉ, quyển 1, có chép:Trước kia, khi vua [Đinh Tiên Hoàng] còn hàn vi, thường ra sông Giao Thủy [ở Ninh Bình] để đánh cá. Có lần kéo lưới, bắt được viên ngọc khuê to, nhưng lại lỡ làm va vào mũi thuyền, khiến bị mẻ mất một góc. Đêm ấy, nhà vua vào ngủ nhờ ở chùa Giao Thủy, để viên ngọc ở dưới đáy giỏ cá. Đang khi nhà vua ngủ say, thấy giỏ cá có ánh sáng lạ phát ra, nhà sư của chùa Giao Thủy bèn gọi Nhà vua dậy để hỏi cho ra duyên cớ. Nhà vua cứ tình thực mà kể, lại còn lấy viên ngọc cho nhà sư xem. Xem xong, nhà sư than rằng: "Ngày sau, anh sẽ phú quý không biết kể thế nào cho hết, nhưng tiếc là phúc đức không được bền lâu..."Sử thần Ngô Sĩ Liên nói:"Đế vương dấy nghiệp không ai không nhờ ở trời. Nhưng thánh nhân không cậy có mệnh trời mà làm hết phận sự của mình. Việc đã thành, lại càng lo nghĩ đề phòng. Sửa sang lễ nhạc hình án chính sự là để phòng giữ lòng người. Đặt nhiều lần cửa, đánh hiệu canh là đề phòng kẻ hung bạo. Bởi vì lòng dục không cùng, việc đời không bến, không thể không đề phòng trước… Cho nên Tiên Hoàng không được trọn đời là do chưa làm hết việc người, không phải mệnh trời không giúp. Cũng vì vua không giữ được trọn đời khiến cho cái thuyết sấm đồ đắc thắng, đời sau không thể không bị mê hoặc vì điều đó."Sự kiện cái chết của Đinh Tiên Hoàng còn nhiều nghi vấn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu hiện đại khẳng định chắc chắn Tiên Hoàng bị hại không phải vì Đỗ Thích muốn đoạt ngôi và có nhiều ý kiến[19] nghiêng về khả năng thủ phạm là Lê Hoàn và Dương hậu.
Nhận định
   Nhà sử học Lê Văn Hưu nhận xét:"Tiên Hoàng nhờ có tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, đương lúc nước Việt ta không có chủ, các hùng trưởng cát cứ, một phen cất quân mà mười hai sứ phục hết. Vua mở nước dựng đô, đổi xưng Hoàng Đế, đặt trăm quan, lập sáu quân, chế độ gần đầy đủ, có lẽ ý Trời vì nước Việt ta mà sinh bậc thánh triết..."
   Nhà sử học Ngô Sĩ Liên nhận xét:"Vận trời đất, bí rồi ắt thái, Bắc Nam đều cùng một lẽ ấy. Thời Ngũ đại bên Bắc triều Trung Quốc suy loạn rồi Tống Thái Tổ nổi lên. Ở Nam triều nước ta, 12 sứ quân phân chia quấy nhiễu, rồi Đinh Tiên Hoàng nổi lên. Không phải là ngẫu nhiên mà do vận trời vậy."
   Nhà sử học Phan Huy Chú trong "Lịch triều hiến chương loại chí" nhận xét:"Xét nước ta từ thời Hùng Vương mới bắt đầu thông hiếu với Trung Quốc nhưng danh hiệu còn nhỏ không được dự vào hàng chư hầu triều hội... đến khi Đinh Tiên Hoàng bình định các sứ quân, khôi phục mở mang bờ cõi, bấy giờ điển lễ, sách phong của Trung Quốc mới cho đứng riêng là một nước."
     Nhà sử học Ngô Thì Sĩ trong "Đại Việt sử ký tiền biên" nhận xét:“Tiên Hoàng dấy lên từ một người áo vải, một lần nổi lên dẹp được 12 sứ quân. Rồi dựng nước, dựng kinh đô, đổi niên hiệu, chính ngôi vua. Võ công vang khắp, văn hóa đều đổi mới...” [22]
     Sử gia Ngô Sỹ Liên trong Đại Việt sử ký toàn thư nhận xét:"Vua tài năng sáng suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, quét sạch các hùng trưởng... song không biết dự phòng, không giữ được trọn đời, tiếc thay! "
    Lê Tung trong nhận xét trong "Việt giám thông khảo tổng luận":"Vua bình được 12 sứ quân, trời cho người theo, thống nhất bờ cõi,… sáng chế triều nghi, định lập quân đội, vua chính thống của nước Việt ta, thực bắt đầu từ đấy, kể về mặt dẹp giặc phá địch thì công to lắm”."

   Cuộc đời và sự nghiệp vua Đinh Tiên Hoàng của Việt Nam, có nhiều điểm giống với Tần Thủy Hoàng của Trung Hoa:
Tên gọi Tiên Hoàng hay Thủy Hoàng đều có ý nghĩa là hoàng đế đầu tiên. Đinh Tiên Hoàng là vị hoàng đế mở nền chính thống đầu tiên của nước Việt thống nhất[23], Tần Thủy Hoàng là hoàng đế đầu tiên thống nhất Trung Hoa.
Thời gian ở ngôi hoàng đế đều là 12 năm: Đinh Tiên Hoàng (968 - 979), Tần Thủy Hoàng (221 - 210 TCN).
Danh hiệu: Trước khi làm hoàng đế, cả hai đều có vương hiệu: Thuỷ Hoàng là Tần Vương, Tiên Hoàng là Vạn Thắng Vương. Sự thăng tiến trong danh hiệu này không chỉ là thăng tiến trong sự nghiệp cá nhân mà còn đều đánh dấu sự thay đổi của lịch sử quốc gia. Từ thời nhà Chu, các vua đứng đầu thiên hạ (thiên tử) đều chỉ xưng vương, các chư hầu thời Chiến Quốc cũng chỉ xưng vương, từ Tần Thủy Hoàng chính thức xưng hoàng đế là sự thay đổi "nâng bậc" về danh hiệu của vua đứng đầu thiên hạ. Đinh Bộ Lĩnh trong lịch sử Việt Nam cũng tương tự: từ khi giành độc lập trở lại thời họ Khúc, những người cầm quyền ban đầu đều chỉ xưng Tiết độ sứ với tư cách "trưởng quan" cai trị một vùng lãnh thổ thuộc về Trung Quốc. Tới nhà Ngô, các vua mới xưng vương và tới Đinh Bộ Lĩnh xưng hoàng đế, cũng là sự thay đổi lớn, tạo dấu ấn trong lịch sử quốc gia như Tần Thủy Hoàng.
Đinh Tiên Hoàng xây dựng thành Hoa Lư bằng cách nối lại các dãy núi đá trong tự nhiên bằng tường thành nhân tạo, Tần Thuỷ Hoàng xây dựng Vạn Lý Trường Thành cũng bằng cách nối lại các đoạn thành sẵn có của các nước chư hầu. Cả hai đều lập đô ở những vùng núi non hiểm trở.
Đinh Tiên Hoàng Đế và Tần Thủy Hoàng Đế cùng trở thành hoàng đế sau khi tiêu diệt các thế lực cát cứ phân tán (dẹp nội chiến) để lập nên một đất nước thống nhất, tự chủ, chuyển đổi chế độ phong kiến phân quyền sang chế độ phong kiến tập quyền.
Cả Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi làm vua đều dùng chính sách cai trị bằng pháp luật nghiêm khắc.
Đinh Tiên Hoàng và Tần Thủy Hoàng khi mất đều đương quyền hoàng đế, người kế tục sự nghiệp đều là con thứ và sớm để quyền bính rơi vào tay quyền thần. Hai triều đại mà hai hoàng đế sáng lập tuy ngắn ngủi nhưng để lại nhiều dấu ấn trong lịch sử.
    Theo Đại việt sử ký toàn thư, Vua Đinh Tiên Hoàng lập 5 hoàng hậu là Đan Gia, Trinh Minh, Kiều Quốc, Cồ Quốc và Ca Ông. Trong đó được nhắc đến nhiều là hoàng hậu hai triều Dương Vân Nga và bà tổ nghề may Nguyễn Thị Sen.


    Về các con Vua Đinh Tiên Hoàng, các sử chép thống nhất có 3 con trai Đinh Liễn, Đinh Hạng Lang, Đinh Toàn. Riêng con gái vua không chép rõ ràng nhưng căn cứ vào các thần tích tại nhiều đền thờ có thể thấy ít nhất vua có 4 con gái là công chúa Phất Kim (được thờ ở đền thờ công chúa Phất Kim khu di tích cố đô Hoa Lư), công chúa Phù Dung (được thờ ở đình Phù Sa, xã Viên Sơn thị xã Sơn Tây Hà Nội)[24], công chúa Minh Châu là vợ của Trần Thăng, em sứ quân Trần Lãm và công chúa Liên Hoa (được thờ ở đình Trâm Nhị, Ân Thi, Hưng Yên).
Tôn vinh

Tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế

     Hầu hết các thành phố, thị xã ở Việt Nam đều có đường mang tên Đinh Tiên Hoàng. Một số nơi có đường mang tên Đinh Bộ Lĩnh như ở Thành phố Hồ Chí Minh, thị xã La Gi (Bình Thuận), Hương Trà (Thừa Thiên Huế), thành phố Nam Định, Thủ Dầu Một (Bình Dương), Mỹ Tho, thị xã Lai Châu... Một số trường học được đặt tên Đinh Tiên Hoàng. Một số vận động viên thể thao khi gia nhập quốc tịch Việt Nam cũng lấy họ theo vua nhưĐinh Hoàng La, Đinh Hoàng Max (bóng đá), Đinh Hoàng Chai (bóng chuyền)
   Tháng 3 năm 2011, chiếc tàu hộ tống mang tên lửa lớp Gepard 3.9 đầu tiên của Hải quân nhân dân Việt Nam được đặt tên là Đinh Tiên Hoàng.Ngoài các tư liệu chính sử, trong văn học Việt Nam có nhiều tác phẩm nổi tiếng viết về Đinh Bộ Lĩnh tiêu biểu như: Cờ lau dựng nước, Trận chiến trong thung lũng, Hoàng đế cờ lau, Sử ca Đinh Bộ Lĩnh, truyền thuyết sông Hoàng Long, truyền thuyết con ngựa đá, bóng cờ lau... Trong đó có tác phẩm đã được chuyển đổi thành phim nhựa như “Trận chiến trong thung lũng”, “Hoàng đế cờ lau” và "Đinh Tiên Hoàng đế". Trong dân gian, Đinh Bộ Lĩnh còn được xưng tụng với những tên gọi: anh hùng Vạn Thắng Vương, Đại Thắng Minh Hoàng đế... Hình ảnh Đinh Bộ Lĩnh thời niên thiếu đã đi vào thơ ca tuổi trẻ Việt Nam từ thời tiểu học:

“Bé thì chăn nghé, chăn trâu

Trận bày đã lấy bông lau làm cờ

Lớn lên xây dựng cơ đồ

Mười hai sứ tướng bây giờ đều thua”
Đền thờ, tượng đài[sửa]Xem thêm: Đền thờ Đinh Bộ Lĩnh, đền Vua Đinh Tiên Hoàng, động Hoa Lư
Phong cảnh cố đô Hoa Lư

      Các đền thờ Đinh Bộ Lĩnh có ở nhiều vùng miền khác nhau. Nổi bật nhất phải kể đến Ninh Bình với 16 đền thờ,[27][28] và nhiều nơi phối thờ thường nằm ở phía bắc tỉnh (trong khi các đền thờ Lê Đại Hành lại thường nằm ở nửa phía nam của tỉnh này). Các đền, đình tiêu biểu như: đền Vua Đinh Tiên Hoàng, đình Yên Trạch, đình Yên Thành ở khu di tích cố đô Hoa Lư, xã Trường Yên; đình Trung Trữ xã Ninh Giang, Hoa Lư; đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở xã Gia Phương; đình Viến và đền thung Lau ở động Hoa Lư; đình Kính Chúc và đình Thượng Kính Chúc, xã Gia Phú Gia Viễn; các đình Mỹ Hạ, đình Ngọc Nhị, đình Ngọc Ba xã Gia Thủy và các đình thôn Lược, thôn Me xã Sơn Lai huyện Nho Quan.
     Nam Định có đền vua Đinh ở xã Yên Thắng, đình Thượng Đồng ở xã Yên Tiến, Ý Yên; ở làng việt cổ Bách Cốc, Vụ Bản; đền vua Đinh ở Giao Thủy… Hà Nam có đền Lăng ở Thanh Liêm; đền Vua Đinh ở xã Đồng Hóa và đền Đặng Xá ở Văn Xá, Kim Bảng; đền Ung Liêm ở Phủ Lý… Hà Nội có đền thờ ở làng Cổ Điển, Tứ Hiệp, Thanh Trì… Xa hơn là Đà Nẵng có đền thờ vua Đinh ở xã Hoà Khương, Hoà Vang; Lạng Sơn có đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng ở thôn Quảng Trung xã Quảng Lạc, thành phố Lạng Sơn; Thanh Hóa có đền Vua Đinh ở làng Quan Thành, Triệu Sơn, Đăk Lăk có đình Cao Phong[29] ở Hòa Thắng, Buôn Ma Thuột... Tượng đài anh hùng Đinh Bộ Lĩnh ở Thành phố Hồ Chí Minh được dựng ở suối Tiên và công viên Tao Đàn. Tại trung tâm thành phố Ninh Bình đã xây dựng khu quảng trường Đinh Tiên Hoàng Đế.
   Các vị quan trung thần của vua Đinh Tiên Hoàng được thờ chung ở rất nhiều nơi, qua đó thấy được sự nghiệp và tình cảm đặc biệt mà nhân dân dành cho vị vua này. Đó là các di tích: Phủ Khống ở Tràng An (Ninh Bình); đình làng Kim Sơn, (Gia Lâm, Hà Nội); Đình làng Đại Vi, xã Đại Hồng (Tiên Du, Bắc Ninh); Đình làng Mai Động (Hà Nam; Đình thôn Cẩm Du xã Thanh Lưu (Thanh Liêm, Hà Nam); Đình làng So xã Cộng Hòa (Quốc Oai, Hà Nội). Đình làng Thuỵ Trà xã Nam Trung (Nam Sách, Hải Dương). Tục đánh quân ở làng Yên Thư xã Yên Phương (Yên Lạc, Vĩnh Phúc) lại có các trò "Mục đồng đánh quân" và "Chợ mục đồng" suy tôn tinh thần thượng võ của Đinh Bộ Lĩnh khi qua đây đánh dẹp sứ quân Nguyễn Khoan ở Vĩnh Mỗ. Các lễ hội cố đô Hoa Lư, lễ hội động Hoa Lư ở Ninh Bình cũng diễn lại tích cờ lau tập trận của Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ.
đền Vua Đinh Tiên Hoàngở cố đô Hoa Lư 

Đền Vua Đinh, xã Yên Thắng, Ý Yên, Nam Định 

đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ởđộng Hoa Lư

0 nhận xét:

Đăng nhận xét

Khi trả lời hoặc đưa ra một câu hỏi xin vui lòng:
1) Hiểu rằng tiếng Việt không phải là ngôn ngữ đầu tiên của tất cả mọi người vì vậy hãy khoan dung lỗi chính tả và ngữ pháp xấu.
2) Nếu một câu hỏi vẫn chưa được câu sau đó, hoặc yêu cầu làm rõ, bỏ qua nó, hoặc chỉnh sửa các câu hỏi và sửa chữa vấn đề. Xúc phạm không được chào đón.
3) Với mỗi bài viết, các bạn không rõ ở điểm nào. Xin hãy nêu ý kiến của mình dưới comments!
Hoặc có thể liên hệ qua Email: phavaphu@gmail.com
----------------------------------------------------------
Chúc các bạn sức khỏe và thành công trong cuộc sống!

 
Powered by by: Blogger